Mật khẩu không đúng!
Kết quả tài chính giai đoạn 2022 – 2024
Trong 3 năm gần nhất, Vingroup (VIC) ghi nhận tăng trưởng về doanh thu nhưng lợi nhuận chỉ cải thiện nhẹ đến năm 2024. Bảng dưới đây tóm tắt một số chỉ tiêu tài chính quan trọng của VIC:
Doanh thu 2022 bao gồm cả doanh thu chuyển nhượng BĐS ghi nhận vào thu nhập tài chính (tương đương mức 2021).
Ước tính: Nợ phải trả 2022 ≈ 440 nghìn tỷ ₫ (ngược tính từ mức tăng 18% lên 519.434 tỷ ₫ năm 2023).
Phân tích: Doanh thu của Vingroup đạt đỉnh lịch sử vào năm 2024 với ~189 – 192 nghìn tỷ ₫, tăng khoảng 17–19% so với 2023. Động lực chính đến từ bất động sản (bàn giao dự án quy mô lớn như Vinhomes Ocean Park 2–3, Vinhomes Royal Island) và xe điện VinFast bán chạy trong nước. Năm 2023 doanh thu VIC tăng vọt ~59% lên ~161 nghìn tỷ ₫ so với mức thấp của 2022 (khoảng 101 nghìn tỷ ₫ nếu không tính khoản bất thường) do phục hồi sau Covid và VinFast bắt đầu đóng góp.
Mặc dù doanh thu tăng mạnh, lợi nhuận sau thuế của Vingroup còn khá khiêm tốn. Năm 2022, lãi ròng chỉ ~1.982 tỷ ₫ do VinFast và các mảng mới lỗ lớn, phần lớn lợi nhuận từ Vinhomes bị triệt tiêu khi hợp nhất (LNST hợp nhất giảm xuống còn ~2 nghìn tỷ dù Vinhomes riêng lẻ lãi >29 nghìn tỷ). Sang 2023, lợi nhuận ròng đạt ~2.051 tỷ ₫, tăng nhẹ 3,5% và hoàn thành kế hoạch đề ra. Tỷ suất lợi nhuận ròng duy trì rất thấp ~1–1,3% trong 2022–2023. Đến 2024, lợi nhuận sau thuế tăng vọt 155% lên 5.251 tỷ ₫, tương ứng biên lợi nhuận ròng ~2,8%. Sự cải thiện này nhờ bàn giao bất động sản cao kỷ lục và doanh số VinFast tăng gấp 2,5 lần, cùng với lợi nhuận khác từ thoái vốn công ty con (Vingroup bán VinBrain, VinAI...) bù đắp chi phí. Tuy vậy, mức lãi tuyệt đối vẫn còn thấp so với quy mô tập đoàn.
Về EPS, do số cổ phần VIC lưu hành ~3,82 tỷ (ổn định qua các năm), EPS cơ bản 2022–2023 chỉ khoảng 500–540 ₫/cp tương ứng lợi nhuận rất thấp. Năm 2024 EPS tăng lên xấp xỉ 1.400 ₫/cp nhờ lợi nhuận cải thiện. ROE của Vingroup vì vậy cũng ở mức thấp: chỉ ~1–2% trong 2022–2023 và tăng lên ~3–4% năm 2024 (so với mức sinh lời kỳ vọng >10% thì hiệu quả sử dụng vốn còn kém). Điều này phản ánh việc VIC chưa tạo ra nhiều lợi nhuận trên vốn do vẫn trong giai đoạn đầu tư mở rộng mạnh mẽ.
Về cấu trúc tài sản, tổng tài sản VIC tăng nhanh từ ~574,8 nghìn tỷ cuối 2022 lên ~669,6 nghìn tỷ 2023 (+16%) và 839,2 nghìn tỷ ₫ cuối 2024 (+25,7%). Sự mở rộng tài sản chủ yếu nhờ tăng hàng tồn kho BĐS (dự án đang triển khai) và đầu tư vào sản xuất (nhà máy VinFast). Song song, nợ phải trả cũng phình to: cuối 2024 nợ phải trả VIC đạt 685.699 tỷ ₫, tăng 32% trong năm, gấp ~4,5 lần vốn chủ. Nợ ngắn hạn tăng mạnh (từ 298 lên 401 nghìn tỷ trong 2023) do khách hàng trả tiền trước mua BĐS tăng gấp 3 lần (139.678 tỷ ₫ cuối 2024) và một phần do một số khoản vay dài hạn đến hạn phải chuyển sang ngắn hạn. Nợ vay (vay ngân hàng, trái phiếu…) chiếm khoảng 213.253 tỷ trong tổng nợ 519.434 tỷ ₫ cuối 2023. Cơ cấu nợ vay gồm vay hợp vốn (~31%), vay NH (~25%), trái phiếu nội địa (~22%) và quốc tế (~13%).... Nhờ có lượng người mua trả trước lớn (đặt cọc BĐS ~134 nghìn tỷ, ~33,8% tổng nợ) nên phần nợ này thực chất là doanh thu tương lai, giảm bớt áp lực tài chính.
Vốn chủ sở hữu VIC đạt khoảng 153,5 nghìn tỷ ₫ cuối 2024, chỉ nhích nhẹ so với ~150,2 nghìn tỷ ₫ năm 2023 (do giữ lại toàn bộ lợi nhuận và có phát hành riêng lẻ nhỏ). Tỷ lệ nợ trên vốn chủ rất cao (~4,5:1) thể hiện đòn bẩy tài chính lớn. Tuy nhiên, ban lãnh đạo khẳng định tập đoàn luôn trả đầy đủ lãi nợ vay, quản lý dòng tiền chặt chẽ và có thể huy động vốn mới nhờ uy tín tín dụng tốt.
Tóm lại, giai đoạn 2022–2023 Vingroup tăng trưởng doanh thu mạnh nhưng lợi nhuận rất thấp do gánh nặng đầu tư (xe điện, hạ tầng mới) và chi phí tài chính cao. Đến 2024 hiệu quả cải thiện hơn nhưng biên lợi nhuận vẫn mỏng. Vingroup đang tích lũy doanh thu chưa ghi nhận rất lớn từ bán BĐS (người mua trả tiền trước ~140k tỷ), hứa hẹn chuyển thành lợi nhuận khi bàn giao dự án trong các năm tới.
Định giá cổ phiếu VIC theo các phương pháp phổ biến
Để đánh giá giá trị hợp lý của cổ phiếu VIC, có thể áp dụng nhiều phương pháp định giá khác nhau. Dưới đây là phân tích định giá VIC theo một số phương pháp phổ biến:
Phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF)Phương pháp DCF tính toán giá trị doanh nghiệp dựa trên dòng tiền tự do tương lai chiết khấu về hiện tại. Đối với VIC, phương pháp DCF đầy đủ cần dự phóng dòng tiền của các mảng kinh doanh chính (bất động sản, sản xuất ô tô, du lịch, bán lẻ...) trong nhiều năm tới và xác định giá trị còn lại (terminal value).
- Dự phóng dòng tiền: Năm 2025, Vingroup đặt kế hoạch doanh thu 300.000 tỷ ₫ và LNST 10.000 tỷ ₫, tăng trưởng mạnh so với 2024. Giả sử giai đoạn 2025–2030, VIC duy trì tăng trưởng doanh thu 15–20%/năm nhờ bàn giao lượng lớn bất động sản (Ocean Park, Grand World, Cần Giờ…) và VinFast mở rộng thị phần xe điện, sau đó tăng trưởng giảm dần về 5–10%/năm giai đoạn ổn định. Biên lợi nhuận có thể cải thiện khi VinFast tiến gần điểm hòa vốn tại Việt Nam (dự kiến bán 200.000 xe EV nội địa sẽ hòa vốn) và các mảng du lịch, bán lẻ phục hồi hoàn toàn sau dịch.
- Chi phí vốn: Vingroup có cấu trúc vốn vay lớn, do đó chi phí sử dụng vốn bình quân WACC tương đối cao. Ví dụ, giả định cost of equity ~15% (phản ánh mức rủi ro cao của thị trường VN và ngành BĐS/EV) và cost of debt sau thuế ~8%. Với tỷ trọng nợ/vốn ~70/30, WACC VIC khoảng 10–12%.
- Kết quả định giá DCF (ước tính): Nếu giả định dòng tiền tăng trưởng như trên, giá trị hiện tại của dòng tiền giai đoạn 5–10 năm tới cộng với giá trị cuối kỳ (theo phương pháp tăng trưởng vĩnh viễn ~3%/năm) có thể định giá giá trị doanh nghiệp (EV) của VIC khoảng 18–20 tỷ USD. Sau khi trừ nợ ròng ~9 tỷ USD, giá trị vốn cổ phần còn khoảng 9–11 tỷ USD, tương đương ~210–260 nghìn tỷ ₫. Chia cho ~3,82 tỷ cổ phiếu, giá trị mỗi cổ phiếu VIC theo DCF khoảng 55.000 – 68.000 ₫. Mức định giá DCF này khá nhạy cảm với giả định tăng trưởng VinFast và dự án BĐS dài hạn. Nếu VinFast thành công rực rỡ quốc tế, giá trị VIC có thể cao hơn; ngược lại, rủi ro từ VinFast và nợ vay có thể kéo giảm giá trị đáng kể.
Nhìn chung, định giá DCF của VIC cho kết quả xấp xỉ vùng giá thị trường hiện tại (khoảng 65–70 nghìn ₫), phản ánh nhà đầu tư đã kỳ vọng vào tăng trưởng cao trong tương lai. Phương pháp DCF cũng nhấn mạnh rủi ro: giá trị VIC phụ thuộc lớn vào việc hiện thực hóa các dòng tiền tương lai từ các dự án và VinFast, do đó độ bất định cao.
Phương pháp so sánh P/EPhương pháp P/E định giá cổ phiếu dựa trên hệ số giá trên lợi nhuận. Hiện tại, do lợi nhuận của VIC còn thấp, P/E trailing của VIC khá cao. Với giá ~67.000 ₫ và EPS 2024 khoảng 1.373 ₫, P/E hiện tại ~49 lần. Ngay cả nếu tính EPS theo lợi nhuận hợp nhất (bao gồm cả phần lợi ích cổ đông thiểu số) ~3.100 ₫, thì P/E cũng ~21,6 lần. Mức P/E này cao hơn trung bình thị trường (~10-12 lần) và phản ánh kỳ vọng lợi nhuận tương lai tăng mạnh.
Để định giá, có thể xét P/E forward dựa trên kế hoạch 2025. Nếu VIC đạt LNST ~10.000 tỷ ₫ năm 2025, EPS forward ~2.600 ₫. Giả sử thị trường chấp nhận P/E ~25x (do VIC là công ty đầu ngành, có tiềm năng tăng trưởng cao), thì giá mục tiêu theo P/E forward = 2.600 ₫ * 25 = 65.000 ₫. Mức này gần bằng thị giá hiện tại (~67k), cho thấy cổ phiếu không còn rẻ theo phương pháp P/E nếu so với lợi nhuận kế hoạch. Thậm chí, nếu so với các doanh nghiệp BĐS khác ở VN có P/E ~8-10x, VIC đang được định giá rất cao do phần lợi nhuận VinFast chưa hiện hữu.
Tuy nhiên, phương pháp P/E truyền thống chưa phản ánh đúng giá trị VIC vì lợi nhuận kế toán của VIC bị ảnh hưởng bởi khấu hao, lãi vay lớn và VinFast đang lỗ. Nhà đầu tư kỳ vọng vào lợi nhuận đột biến các năm tới (từ bàn giao dự án và VinFast có lãi) nên chấp nhận P/E cao. Nếu những kỳ vọng này không thành hiện thực, cổ phiếu VIC sẽ chịu áp lực điều chỉnh giảm do P/E quá cao.
Phương pháp so sánh P/BPhương pháp P/B dựa trên giá trị sổ sách của doanh nghiệp. Hiện tại, VIC có giá trị sổ sách khoảng 36.080 ₫/cp, tương ứng vốn chủ sở hữu hợp nhất ~138 nghìn tỷ ₫. Với thị giá ~67.000 ₫, hệ số P/B ~1,7 lần. Đây là mức P/B tương đối hợp lý đối với một công ty bất động sản – dịch vụ hàng đầu. Các năm trước, VIC thường giao dịch P/B quanh 2–3 lần trong giai đoạn tăng trưởng cao, còn khi khó khăn (2022–2023) P/B có lúc xuống ~1,2–1,5 lần.
Để định giá, có thể so sánh với giá trị tài sản ròng (RNAV) của VIC. Vốn chủ sở hữu sổ sách của VIC (~153,5 nghìn tỷ cuối 2024) có thể chưa phản ánh đầy đủ giá trị thị trường các tài sản:
- Quỹ đất và dự án BĐS: Vinhomes có quỹ đất khổng lồ; nhiều dự án hạch toán giá vốn thấp hơn giá thị trường. Nếu định giá lại toàn bộ quỹ đất theo giá thị trường, giá trị tài sản ròng của Vinhomes/Vingroup sẽ cao hơn sổ sách. Điều này ngụ ý P/B thực tế có thể <1,7 lần.
- Cổ phần tại các công ty con niêm yết: Vingroup đang sở hữu ~66% Vinhomes (VHM) và ~60% Vincom Retail (VRE). Tại ngày 25/4/2025, vốn hóa VHM khoảng 255.900 tỷ ₫ và VRE ~51.800 tỷ ₫. Giá trị thị trường phần sở hữu của Vingroup trong hai công ty này vào khoảng 169 nghìn tỷ + 31 nghìn tỷ = 200 nghìn tỷ ₫. Riêng con số này đã lớn hơn vốn hóa hiện tại của VIC (~256 nghìn tỷ) nếu trừ đi nợ. Điều đó cho thấy thị trường đang định giá rất thấp mảng còn lại (VinFast, Vinpearl, Vinmec…) hoặc chiết khấu rủi ro rất mạnh.
- Tài sản khác: Mảng du lịch (Vinpearl), y tế (Vinmec), giáo dục (Vinschool) của VIC chưa niêm yết. Dù đóng góp lợi nhuận chưa lớn, các mảng này có giá trị thương hiệu và tài sản hữu hình đáng kể (VD: hệ thống khách sạn Vinpearl, bệnh viện Vinmec). Vingroup dự kiến niêm yết Vinpearl trong 2025 để huy động vốn, hứa hẹn hiện thực hóa một phần giá trị tài sản này.
Tổng hợp lại, định giá theo giá trị tài sản ròng cho thấy cổ phiếu VIC đang giao dịch xung quanh giá trị hợp lý. P/B ~1,7x không đắt so với tài sản sổ sách, thậm chí thấp nếu xét đến tiềm năng tăng trưởng của những tài sản đó. Tuy nhiên, mức chiết khấu này là hợp lý bởi VIC gánh nợ lớn, và một phần tài sản (VinFast) chưa sinh lời. Nhà đầu tư trả giá cho VIC chủ yếu dựa trên giá trị Vinhomes + VRE + kỳ vọng VinFast. Nếu tách riêng: giá trị thị trường phần Vinhomes & Vincom Retail đã xấp xỉ giá trị VIC; như vậy phần VinFast và các mảng khác đang được định giá không cao, do giới đầu tư thận trọng với rủi ro.
Phương pháp EVA (Economic Value Added)Phương pháp EVA đánh giá hiệu quả tạo giá trị thặng dư kinh tế của doanh nghiệp, bằng cách so sánh lợi nhuận sau thuế hoạt động (NOPAT) với chi phí sử dụng vốn.
- Trong các năm 2022–2023, VIC có EVA âm vì lợi nhuận hoạt động không đủ bù chi phí vốn. Cụ thể, lợi nhuận sau thuế của VIC (~2k tỷ) rất thấp so với vốn đầu tư (vốn chủ ~150k tỷ + nợ vay >200k tỷ). Nếu giả định chi phí vốn bình quân 10%/năm, thì VIC cần tạo ra >20k tỷ NOPAT mỗi năm để có EVA dương. Thực tế VIC tạo lợi nhuận thấp hơn nhiều, đồng nghĩa đang phá hủy giá trị kinh tế trong ngắn hạn.
- Năm 2024, với LNST ~5.251 tỷ ₫, EVA của VIC có cải thiện nhưng có thể vẫn âm. NOPAT (loại trừ ảnh hưởng lãi vay) ước khoảng 10–12k tỷ, so với chi phí vốn kỳ vọng ~30k tỷ (10% * ~300k tỷ vốn đầu tư), thì VIC vẫn chưa đáp ứng. Nguyên nhân do VinFast và các dự án mới chưa sinh lời, ROIC của VIC thấp hơn WACC.
Tuy nhiên, định giá theo phương pháp EVA nên nhìn về tương lai. Nếu tin rằng VinFast và các dự án công nghiệp dần mang lại lợi nhuận, VIC có thể đạt EVA dương sau vài năm. Đến khi đó, giá trị gia tăng sẽ phản ánh vào giá cổ phiếu. Hiện tại, EVA của VIC âm cho thấy cổ phiếu VIC mang tính đầu tư dài hạn: nhà đầu tư sẵn sàng chịu lợi nhuận kinh tế âm hôm nay để đổi lấy dòng EVA dương lớn trong tương lai.
Phương pháp thu nhập thặng dư (Residual Income – RI)Phương pháp RI định giá cổ phiếu dựa trên lợi nhuận thặng dư (phần lợi nhuận vượt mức yêu cầu của cổ đông). Công thức: Giá trị cổ phiếu = Giá trị sổ sách + hiện giá các khoản thu nhập thặng dư tương lai.
Đối với VIC, thu nhập thặng dư = Lợi nhuận kỳ vọng – (Cost of equity * Vốn chủ sở hữu đầu kỳ). Giai đoạn 2022–2024, do lợi nhuận trên vốn rất thấp (ROE 1–3% vs. cost of equity 15%+), thu nhập thặng dư của VIC âm. Điều này hàm ý giá trị nội tại theo RI có thể thấp hơn giá trị sổ sách nếu nhìn thuần túy số liệu quá khứ. Thật vậy, nếu lấy vốn chủ ~36k ₫/cp và cost of equity 15%, cổ đông “đòi hỏi” ~5.400 ₫ lợi nhuận mỗi cổ phiếu, nhưng VIC chỉ tạo ~500–1.400 ₫ EPS các năm qua – thiếu hụt rất lớn, dẫn đến RI âm.
Tuy nhiên, phương pháp RI cũng chú trọng triển vọng tương lai. Nếu dự phóng giai đoạn 2025–2030, VIC có thể nâng ROE lên 10–15% nhờ VinFast và bất động sản thu lợi, thì thu nhập thặng dư sẽ dương. Khi đó, định giá RI sẽ cộng thêm phần thặng dư vào giá trị sổ sách. Ví dụ, nếu tin rằng từ 2026 trở đi VIC đạt ROE > cost of equity khoảng 5% điểm, trên vốn ~150k tỷ, mỗi năm tạo thặng dư ~7.500 tỷ, thì hiện giá thặng dư này (chiết khấu 15%) khoảng 50–60k tỷ, cộng với vốn chủ 153k tỷ cho giá trị vốn cổ phần ~210k tỷ (~55k ₫/cp). Con số này gần với định giá DCF/P/E ở trên.
Tóm lại, định giá VIC bằng P/E và P/B hiện cho thấy cổ phiếu không rẻ, do thị giá đã phản ánh phần lớn giá trị tài sản và kỳ vọng lợi nhuận tương lai. Các phương pháp EVA, RI cho thấy VIC hiện chưa tạo giá trị thặng dư cho cổ đông, định giá cao của VIC chủ yếu dựa vào kỳ vọng tăng trưởng đột biến các năm tới. Nhà đầu tư cần tin tưởng vào chiến lược mở rộng của Vingroup để chấp nhận mức định giá hiện hành.