Tác động của thuế quan đối ứng Mỹ (mức 46% với Việt Nam) đến kinh tế và chứng khoán Việt Nam

Ngày 2/4/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp thuế quan “có đi có lại” (thuế quan đối ứng) tối thiểu 10% lên toàn bộ hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ. Đặc biệt, với những nước bị coi là “nghiêm trọng” về chênh lệch thuế, mức thuế cao hơn đã được áp dụng. Việt Nam nằm trong nhóm chịu thuế suất đối ứng cao nhất: 46% trên mọi hàng hóa xuất sang Mỹ. Đây là một cú sốc lớn bởi Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (119,5 tỷ USD năm 2024, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch). Dưới đây là phân tích chi tiết tác động của chính sách thuế này lên các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam năm 2025.

Tăng trưởng kinh tế suy giảm

Việc Mỹ áp thuế nhập khẩu 46% với hàng Việt Nam được dự báo sẽ kéo chậm đáng kể tăng trưởng GDP Việt Nam. Xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ trọng rất lớn, khoảng 120 tỷ USD năm 2024​, tập trung vào các ngành chủ lực như điện tử, máy móc, dệt may, giày dép, gỗ... Khi phải chịu mức thuế cao đột biến, hàng Việt Nam sẽ mất lợi thế cạnh tranh về giá tại thị trường Mỹ, dẫn tới sụt giảm mạnh về đơn hàng và kim ngạch. Nhiều chuyên gia cảnh báo đây là cú sốc thương mại có thể khiến tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 giảm sút rõ rệt so với dự báo trước đó. Fitch Ratings lưu ý rằng tăng trưởng mạnh mẽ mà Việt Nam kỳ vọng trong vài năm tới đang bị đe dọa bởi động thái nâng thuế của Mỹ. Nếu không có biện pháp ứng phó hữu hiệu, Việt Nam có thể mất đi đóng góp quan trọng từ khu vực xuất khẩu – vốn chiếm tới ~2/3 GDP – kéo GDP tăng chậm lại đáng kể.

Ngoài ra, tác động lan tỏa (spillover) có thể khiến đầu tư nước ngoài (FDI) chững lại. Nhiều doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam thời gian qua để tận dụng ưu đãi thương mại với Mỹ (trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung trước đây). Giờ đây, với việc hàng xuất từ Việt Nam cũng bị đánh thuế nặng, dòng vốn FDI mới có thể dịch chuyển sang các nước ít bị thuế hơn hoặc phải cân nhắc kỹ. Điều này làm suy giảm thêm động lực tăng trưởng trung hạn của Việt Nam.

Lạm phát và giá cả

Chính sách thuế quan đối ứng của Mỹ vừa tạo ra yếu tố giảm phát vừa tiềm ẩn nguy cơ lạm phát tại Việt Nam. Về ngắn hạn, nhu cầu xuất khẩu giảm có thể dẫn tới dư cung một số hàng hóa trong nước, từ đó kìm hãm giá cả. Ví dụ, nếu các doanh nghiệp dệt may, thủy sản không xuất được hàng, họ có thể buộc phải tiêu thụ nội địa với giá rẻ hơn, giúp người tiêu dùng hưởng lợi. Tuy nhiên, tác động này không quá lớn do sức mua trong nước có hạn và nhiều mặt hàng xuất khẩu không dễ hấp thụ hết ở thị trường nội địa.

Ngược lại, rủi ro lạm phát nhập khẩu gia tăng do sự mất giá của tiền đồng. Khi xuất khẩu giảm mạnh, cán cân thương mại và cán cân vãng lai xấu đi gây áp lực lên tỷ giá (phân tích ở phần sau). Đồng Việt Nam yếu hơn khiến giá nhập khẩu nguyên liệu, xăng dầu, hàng tiêu dùng nhập ngoại tăng lên, tạo sức ép tăng CPI. Ngoài ra, nếu Việt Nam phải giảm giá tiền tệ để hỗ trợ xuất khẩu, điều này cũng làm hàng nhập đắt đỏ hơn. Dù thuế quan của Mỹ chủ yếu tác động đến dòng hàng sang Mỹ, nhưng hiệu ứng gián tiếp lên giá cả trong nước thông qua tỷ giá và tâm lý thị trường là không thể xem nhẹ. Nhìn chung, lạm phát Việt Nam năm 2025 có thể diễn biến khó lường: giá hàng xuất khẩu có thể giảm, trong khi giá hàng nhập khẩu và chi phí sản xuất có thể tăng. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ phải theo dõi chặt chẽ để cân bằng giữa ổn định giá cả và hỗ trợ tăng trưởng.

Tiền tệ và lãi suất 

Trước nguy cơ tăng trưởng suy giảm vì cú sốc thuế quan, chính sách tiền tệ nhiều khả năng sẽ chuyển hướng nới lỏng hơn. NHNN có dư địa để giảm lãi suất hoặc duy trì mặt bằng lãi suất thấp nhằm kích thích đầu tư, tiêu dùng nội địa bù đắp cho xuất khẩu. Thực tế, từ 2023, NHNN Việt Nam đã liên tục hạ lãi suất điều hành để hỗ trợ nền kinh tế trong bối cảnh xuất khẩu giảm tốc. Do đó, với cú sốc thương mại này, cơ quan tiền tệ càng có lý do để duy trì chính sách tiền tệ mở rộng trong năm 2025, miễn là lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát.

Mặt khác, NHNN sẽ phải thận trọng điều tiết thanh khoản ngoại tệ và ổn định tâm lý thị trường. Dòng vốn ngoại có thể rút khỏi thị trường mới nổi khi rủi ro chiến tranh thương mại gia tăng, gây sức ép lên tỷ giá. Lãi suất VND có thể phải duy trì ở mức đủ hấp dẫn để ngăn dòng vốn chảy ra. Tuy nhiên, ưu tiên hàng đầu vẫn là hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó: lãi suất cho vay có thể được ưu đãi cho các ngành chịu ảnh hưởng nặng (dệt may, gỗ, thủy sản…), hoặc triển khai gói tín dụng đặc biệt nếu cần. Tóm lại, nhiều khả năng mặt bằng lãi suất 2025 sẽ thấp hơn so với 2024, phản ánh nỗ lực thúc đẩy kinh tế nội địa trong bối cảnh xuất khẩu suy yếu.

Chính sách tài khóa

Chính phủ Việt Nam được dự báo sẽ phải chủ động nới lỏng tài khóa để giảm thiểu tác động tiêu cực. Điều này bao gồm: đẩy mạnh đầu tư công (xây dựng hạ tầng, giải ngân các dự án lớn) nhằm tạo công ăn việc làm và kích thích tổng cầu trong nước; đồng thời xem xét miễn, giảm thuế trong nước cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng. Ví dụ, có thể tạm hoãn thu một số loại thuế, phí, hoặc hỗ trợ tín dụng, trợ cấp đào tạo lại lao động cho các ngành xuất khẩu bị sụt giảm đơn hàng.

Đặc biệt, công cụ thương mại và ngoại giao sẽ được sử dụng tích cực. Chính phủ thời gian qua đã và đang đàm phán với phía Mỹ để giảm căng thẳng thương mại. Các biện pháp gồm có: tăng nhập khẩu hàng hóa Mỹ (như nông sản, năng lượng, máy bay…), giảm thuế quan một số mặt hàng của Mỹ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp Mỹ đầu tư tại Việt Nam. Mục tiêu là giảm thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ, qua đó thuyết phục Washington điều chỉnh hạ mức thuế đối ứng. Hiệu quả của chính sách thuế 46% sẽ phụ thuộc nhiều vào kết quả các cuộc đàm phán song phương sắp tới. Trong kịch bản tích cực, nếu hai bên đạt được thỏa thuận (ví dụ Việt Nam cam kết nhập nhiều hàng Mỹ hơn, kiểm soát xuất khẩu thép nhôm, hoặc điều chỉnh chính sách tiền tệ phù hợp), Mỹ có thể gỡ bỏ hoặc giảm thuế đối ứng sớm hơn dự kiến, giúp giảm áp lực lên ngân sách và tăng trưởng.

Tuy nhiên, trong thời gian thuế còn hiệu lực, ngân sách Việt Nam có thể thất thu do kim ngạch xuất khẩu suy giảm (kéo theo giảm thu thuế xuất nhập khẩu, VAT nội địa từ khu vực xuất khẩu). Đồng thời, chi ngân sách lại tăng để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động. Điều này có thể khiến bội chi tài khóa tăng tạm thời. May mắn là tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát (~38-40%), nên còn dư địa vay nợ cho kích thích kinh tế. Chính phủ có thể phát hành trái phiếu, huy động vốn trong nước và quốc tế (tận dụng lãi suất đang thấp) để tài trợ cho gói hỗ trợ kinh tế nếu cần thiết.

Tỷ giá và ngoại hối

Tỷ giá USD/VND được dự báo chịu sức ép lớn trước cú sốc thương mại này. Việt Nam lâu nay duy trì thặng dư thương mại lớn với Mỹ (xuất siêu ~104 tỷ USD năm 2024)​, giúp nguồn cung ngoại tệ dồi dào và hỗ trợ sự ổn định của tiền đồng. Nay với việc xuất khẩu sang Mỹ có thể lao dốc, nguồn thu ngoại tệ sẽ sụt giảm mạnh, làm thu hẹp thặng dư tài khoản vãng lai. Nếu cán cân thương mại đảo chiều thâm hụt hoặc thặng dư rất nhỏ, VND sẽ mất đi lực đỡ quan trọng.

Ngoài ra, tâm lý thị trường và giới đầu tư ngoại có thể khiến cầu USD tăng lên. Nhà đầu tư lo ngại rủi ro sẽ dịch chuyển tài sản sang đồng USD hoặc các kênh an toàn khác, khiến VND chịu áp lực mất giá so với USD. Trong bối cảnh Mỹ tăng thuế, nhiều đồng tiền khác trong khu vực cũng biến động (ví dụ đồng Nhân dân tệ Trung Quốc và Won Hàn Quốc đã giảm giá sau thông tin áp thuế), tiền đồng khó tránh khỏi xu hướng chung.

NHNN có thể sẽ phải can thiệp thị trường ngoại hối để tránh biến động quá mức. Với dự trữ ngoại hối hiện nay tương đối khá (khoảng 100 tỷ USD cuối 2024), NHNN có thể bán ra một phần USD để bình ổn tỷ giá nếu xảy ra tình trạng găm giữ ngoại tệ. Đồng thời, việc theo đuổi đàm phán để Mỹ giảm thuế cũng là nhằm ổn định kỳ vọng tỷ giá. Việt Nam chắc chắn muốn tránh bị Mỹ gán mác “thao túng tiền tệ”, do đó NHNN sẽ thận trọng không để VND trượt giá quá nhanh. Dù vậy, xu hướng chung được các chuyên gia dự báo là VND sẽ yếu đi so với USD trong 2025. Một mức mất giá vừa phải (ví dụ 2-4% cả năm) có thể xảy ra nhằm cân bằng thương mại, trong khi nhà điều hành cố gắng giữ ổn định để hỗ trợ doanh nghiệp trả nợ ngoại tệ và nhập khẩu thiết yếu.

Xuất nhập khẩu

Đương nhiên, lĩnh vực xuất nhập khẩu là nơi phản ánh rõ nhất tác động của thuế quan đối ứng. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ dự kiến sụt giảm mạnh ngay khi mức thuế 46% có hiệu lực (từ 9/4/2025). Nhiều đơn hàng sẽ bị hủy hoặc giảm quy mô do đối tác Mỹ không chấp nhận mức giá tăng cao. Theo cách tính của chính quyền Trump, mức thuế này “chỉ bằng một nửa” so với hàng rào thuế-quan phi thuế mà họ cho là Việt Nam áp lên hàng Mỹ​, nhưng đối với doanh nghiệp Việt, 46% là quá cao để hấp thụ. Hầu hết các nhà xuất khẩu không thể tăng giá 46% (sẽ mất khách hàng) cũng không thể giảm giá sâu (sẽ lỗ nặng), nên số lượng xuất khẩu phải giảm. Ví dụ, ngành dệt may có thể chứng kiến nhiều khách hàng Mỹ chuyển đơn hàng sang Bangladesh, Ấn Độ (chỉ chịu thuế 26%) hoặc Mexico (không bị thuế mới do đã chịu 25% từ trước).

Biểu đồ trên cho thấy các nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Mỹ năm 2024 và mức độ phụ thuộc vào thị trường Mỹ của từng nhóm. Chẳng hạn, gỗ và sản phẩm gỗ có tới 55% kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc thị trường Mỹ (trong tổng 9 tỷ USD xuất khẩu gỗ, hơn một nửa bán sang Mỹ). Tương tự, dệt may và máy móc thiết bị đều có hơn 40% doanh thu xuất khẩu dựa vào khách hàng Mỹ. Với việc áp thuế 46%, các nhóm hàng này chắc chắn chịu tổn thương nặng nề, không dễ tìm ngay thị trường thay thế đủ lớn. Ngược lại, những ngành mà tỷ trọng Mỹ thấp hơn (ví dụ điện thoại chỉ ~18%, thủy sản 18%...) thì mức độ ảnh hưởng trực tiếp sẽ đỡ nghiêm trọng hơn, nhưng cũng không tránh khỏi liên đới khi tổng cầu thế giới suy giảm.

Ở chiều ngược lại, nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ có thể tăng nếu Chính phủ thực hiện cam kết mua nhiều hàng Mỹ hơn. Năm 2024, Việt Nam mới nhập 15,1 tỷ USD từ Mỹ (chủ yếu là bông, đậu nành, máy bay, linh kiện điện tử)​. Để giảm căng thẳng, Việt Nam có thể tăng nhập nông sản (ngô, thịt) và thiết bị công nghệ từ Mỹ, thậm chí mua thêm máy bay Boeing cho các hãng hàng không. Việc tăng nhập khẩu này, kết hợp với giảm xuất khẩu, sẽ nhanh chóng thu hẹp thặng dư thương mại Việt-Mỹ. Mục tiêu là hướng tới cán cân cân bằng hơn, qua đó Mỹ có thể rút lại chính sách thuế. Tuy nhiên, trong ngắn hạn điều này đồng nghĩa Việt Nam đánh đổi lợi ích thương mại: cán cân với Mỹ có thể chuyển thành thâm hụt hoặc xuất siêu rất nhỏ, so với mức xuất siêu hơn 100 tỷ USD trước đây.

Việt Nam cũng sẽ phải tích cực tìm kiếm thị trường xuất khẩu thay thế để bù đắp phần nào sự sụt giảm ở Mỹ. Các hiệp định thương mại tự do (FTA) hiện có như EVFTA (với EU), CPTPP, RCEP... sẽ được tận dụng tối đa. Chẳng hạn, đẩy mạnh xuất khẩu dệt may, thủy sản sang EU (hiện EU mới chiếm ~15% xuất khẩu dệt may Việt Nam), hoặc tìm cơ hội ở các thị trường mới nổi khác. Tuy vậy, quy mô thị trường Mỹ rất lớn (chiếm khoảng 1/4 tổng xuất khẩu của ta), khó có thị trường nào thay thế tương xứng trong một sớm một chiều. Do đó, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2025 của Việt Nam nhiều khả năng sẽ tăng trưởng âm hoặc tăng rất thấp so với 2024. Một số dự báo độc lập cho rằng kim ngạch xuất khẩu có thể giảm vài chục tỷ USD so với kế hoạch, kéo tăng trưởng GDP giảm theo.

Thị trường lao động

Việc làm tại các ngành xuất khẩu định hướng Mỹ sẽ chịu tác động tiêu cực rõ rệt. Các lĩnh vực như dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử… sử dụng hàng triệu lao động. Khi đơn hàng bị cắt giảm, các doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm giờ làm hoặc sa thải một phần lao động. Giới phân tích lo ngại thuế 46% có thể khiến hàng trăm nghìn lao động mất việc hoặc giảm thu nhập, đặc biệt tập trung ở các trung tâm công nghiệp dệt may (Nam Định, TP.HCM, Bình Dương) và chế biến gỗ (Bình Dương, Đồng Nai).

Một số doanh nghiệp lớn có thể cố gắng giữ lao động bằng cách giảm lợi nhuận, chấp nhận lỗ tạm thời để chờ tình hình cải thiện. Nhưng các doanh nghiệp nhỏ hơn với nguồn lực hạn chế sẽ khó trụ, có thể đóng cửa hoặc phá sản nếu kéo dài, đẩy lao động vào cảnh thất nghiệp. Dòng lao động có thể phải dịch chuyển sang các ngành khác (như dịch vụ nội địa, nông nghiệp) hoặc tạm thời lĩnh bảo hiểm thất nghiệp. Thị trường lao động vì thế sẽ kém sôi động, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm tăng lên.

Thu nhập người lao động đình trệ sẽ kéo theo giảm cầu tiêu dùng, tạo vòng luẩn quẩn tác động xấu trở lại nền kinh tế. Chính phủ có thể phải triển khai chương trình hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi việc làm cho lao động bị ảnh hưởng, hoặc tăng cường các dự án công để thu hút lao động tạm thời. Nếu có tín hiệu Mỹ sớm giảm thuế, doanh nghiệp xuất khẩu mới dám tuyển dụng trở lại. Còn nếu chính sách thuế kéo dài, cơ cấu lao động có thể phải tái phân bổ lâu dài, từ khu vực định hướng xuất khẩu sang khu vực hướng nội nhiều hơn.

Giá cả hàng hóa và nguyên liệu

Chính sách thuế mới của Mỹ sẽ tác động đến giá cả nhiều loại hàng hóa mà Việt Nam giao dịch trên thị trường quốc tế. Một mặt, nhu cầu toàn cầu giảm có thể kéo giá các nông sản, nguyên liệu thô đi xuống – đây là mặt hàng Việt Nam vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu. Ví dụ, giá dầu thô, kim loại cơ bản có thể giảm nếu kinh tế thế giới suy thoái bởi chiến tranh thương mại (Mỹ áp thuế cao nhất từ 1910 tới nay). Điều này giúp Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu với giá rẻ hơn, giảm chi phí sản xuất trong nước.

Tuy nhiên, với mặt hàng Việt Nam xuất khẩu nhiều sang Mỹ, thuế cao sẽ làm giá tại thị trường Mỹ tăng vọt, dẫn đến tiêu thụ giảm và giá thế giới có thể giảm theo do dư cung. Điển hình như cá tra, tôm, hạt điều – Mỹ là thị trường lớn của những sản phẩm này. Khi việc xuất khẩu bị chặn, giá xuất khẩu có thể phải hạ để bán sang thị trường khác, hoặc chấp nhận tồn kho. Nông dân và nhà sản xuất Việt Nam sẽ chịu thiệt hại kép: vừa khó bán vừa bị ép giá. Thống kê năm 2024 cho thấy xuất khẩu thủy sản sang Mỹ đạt 1,83 tỷ USD (chủ yếu cá tra, tôm)​, hạt điều ~1,15 tỷ USD – các ngành này có nguy cơ giảm giá sâu nếu không tìm kịp đầu ra thay thế.

Ngược lại, một số mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam có thể biến động khó lường. Nếu Việt Nam tăng mua nông sản Mỹ (đậu tương, thịt heo, thịt bò), giá các mặt hàng này trong nước có thể hạ nhiệt do nguồn cung dồi dào hơn (có lợi cho ngành chăn nuôi trong nước nhờ giá thức ăn chăn nuôi giảm). Nhưng điều này phụ thuộc nhiều vào chiến lược đàm phán và nhu cầu thực tế.

Nhìn chung, mặt bằng giá hàng hóa thế giới đứng trước xu hướng giảm do cầu suy yếu bởi chiến tranh thương mại. Thực tế, ngay sau tuyên bố áp thuế của ông Trump, giới đầu tư quốc tế đã lo ngại kịch bản suy thoái, khiến thị trường chứng khoán toàn cầu lao dốc và giá vàng tăng vọt lên mức cao kỷ lục gần 3.100 USD/oz. Giá dầu thô cũng có thể giảm do lo ngại nhu cầu (dù yếu tố địa chính trị khác vẫn ảnh hưởng). Việt Nam, với vai trò là nước nhập khẩu ròng nhiên liệu, sẽ hưởng lợi ở khía cạnh chi phí đầu vào giảm nếu giá dầu, giá nguyên liệu quốc tế hạ. Tuy vậy, biến động giá cả trong và ngoài nước giai đoạn tới sẽ rất phức tạp, đòi hỏi doanh nghiệp phải bám sát thị trường để điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp.

Bối cảnh vĩ mô quốc tế

Chính sách thuế quan đối ứng của Mỹ không chỉ ảnh hưởng song phương mà còn đẩy kinh tế vĩ mô quốc tế vào trạng thái bất ổn. Với hơn 180 nước bị ảnh hưởng thuế mới, nguy cơ chiến tranh thương mại toàn diện đang hiện hữu. Nhiều đối tác lớn của Mỹ tuyên bố sẽ đáp trả tương xứng: Liên minh châu Âu, Canada, Trung Quốc, Hàn Quốc đều cân nhắc các biện pháp trả đũa lên hàng hóa Mỹ. Sự ăn miếng trả miếng này sẽ làm suy yếu thương mại toàn cầu, phá vỡ chuỗi cung ứng đã hình thành hàng chục năm. Theo Tổ chức JETRO (Nhật Bản), nếu Mỹ áp thuế đối ứng lên tất cả đối tác (cộng thêm thuế ô tô 25% và thuế bổ sung 20% với hàng Trung Quốc), GDP thế giới có thể giảm 0,6% vào năm 2027, tương đương mất mát 763 tỷ USD.

Bản thân kinh tế Mỹ được dự báo cũng chịu thiệt hại nặng: GDP Mỹ có thể giảm 2,7% so với kịch bản không áp thuế, lạm phát tăng khiến mỗi hộ gia đình Mỹ mất thêm ~3.400 USD chi tiêu/năm. Thị trường chứng khoán Mỹ đã phản ứng tiêu cực, vốn hóa bốc hơi gần 5.000 tỷ USD chỉ trong vài tuần từ khi rộ tin thuế mới. Tình trạng này kéo theo tâm lý lo ngại trên thị trường tài chính toàn cầu, dòng vốn có xu hướng tìm đến tài sản an toàn (vàng, USD), rời bỏ thị trường mới nổi. Việt Nam nằm trong nhóm nền kinh tế mới nổi tăng trưởng nhờ xuất khẩu, do đó chịu tác động gián tiếp rõ rệt: xuất khẩu giảm, vốn FII (đầu tư gián tiếp) có thể bị rút ròng, và chi phí vay nước ngoài tăng lên.

Môi trường bên ngoài trở nên kém thuận lợi cho Việt Nam hơn so với giai đoạn trước. Các nước cạnh tranh xuất khẩu với Việt Nam (như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan) có thể được lợi đôi chút hoặc ít thiệt hại hơn nếu mức thuế họ chịu thấp hơn Việt Nam. Ví dụ, Ấn Độ bị áp thuế 26%, Indonesia có thể chỉ 10% (nằm trong nhóm mặc định), khiến hàng hóa các nước này có lợi thế hơn hàng Việt tại thị trường Mỹ. Một số chuỗi cung ứng có thể điều chỉnh luồng thương mại: ví dụ, hàng điện tử lắp ráp ở Việt Nam có thể được đưa sang nước thứ ba để né thuế khi vào Mỹ, làm tăng chi phí và thời gian. Các nền kinh tế lớn ở châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đang phối hợp phản ứng – điều này có thể mở ra cơ hội hợp tác khu vực nhằm đối phó rủi ro từ chính sách của Mỹ. Việt Nam có thể tham gia vào những nỗ lực chung như vậy để bảo vệ lợi ích thương mại.

Tóm lại, bối cảnh vĩ mô quốc tế năm 2025 bị phủ bóng bởi căng thẳng thương mại do thuế quan Mỹ. Điều này đặt ra thách thức kép cho Việt Nam: vừa phải xử lý quan hệ thương mại song phương với Mỹ, vừa thích nghi với một trật tự thương mại toàn cầu mới kém thuận lợi hơn, ít tự do hóa hơn. Chính phủ và doanh nghiệp Việt cần chủ động, linh hoạt trong ứng phó để giảm thiểu tác động tiêu cực, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô trong nước.

Mới hơn Cũ hơn